GIÁO SĨ VÀ GIÁO DÂN ĐỒNG HÀNH TRONG GIÁO XỨ
Thật chính đáng để chúng ta hân hoan và tạ ơn Thiên Chúa về sự hợp tác, đa dạng và tốt đẹp, giữa giáo sĩ và giáo dân trong Giáo xứ, Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ. Đây thật là một trong những thành quả chính yếu do sự cố gắng áp dụng các hướng dẫn của Công đồng Vatican II.
‘Ơn gọi và Sứ mạng người giáo dân trong thế giới’ đã được Công đồng Vatican II đề cập đến trong bốn văn kiện:
- Hiến chế ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ (Lumen Gentium) về Giáo hội đã dành chương IV để nói về căn bản thần học của vị trí người giáo dân trong Giáo hội.
- Hiến chế ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes) đề cập đến mối tương quan mật thiết giữa Giáo hội và trần thế, trình bày ơn gọi và nghĩa vụ muôn mặt của người giáo dân giữa cộng đồng nhân loại.
- Hai Sắc lệnh ‘Hoạt động truyền giáo của Giáo hội’ (Ad Gentes) và ‘Tông đồ giáo dân’ (Apostolicam Actuositatem) nói về bổn phận truyền giáo của người giáo dân.
Từ những tư tưởng chứa đựng trong 4 văn kiện này, Thượng Hội đồng Giám mục năm 1987 đã nghiên cứu sâu rộng hơn nhờ kinh nghiệm mục vụ sau 20 năm sau Công đồng Vatican II. Sau đó, ngày 30.12.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ký ban hành Tông huấn ‘Người Tín Hữu Giáo Dân’ để trình bày một cách rõ ràng những ý nghĩ và quyết định của các Nghị phụ tham dự Thượng Hội đồng Giám mục.
Thêm vào đó, chúng ta cũng tra cứu Bộ Giáo Luật hiện hành đã được Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.01.1983 do Tông Hiến ‘Sacrae Disciplinae Leges’.
I.- CÁC DANH TỪ.
A.- Giáo xứ.
Điều 374 Giáo Luật ngày 25.01.1983 qui định:
(1) Tất cả các Giáo phận hoặc Giáo hội địa phương nào khác đều phải được phân chia ra thành nhiều phần riêng biệt hoặc Giáo xứ.
(2) Để cổ võ việc săn sóc mục vụ bằng hoạt động chung, nhiều Giáo xứ lân cận gần nhau có thể hợp lại thành những hợp đoàn địa phương, tỉ như các Giáo hạt.
Điều 515 Giáo Luật định nghĩa:
(1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám mục Giáo phận.
(2) Chỉ duy có Giám mục Giáo phận có quyền thành lập, giải tán hoặc thay đổi các Giáo xứ; tuy nhiên Người không nên thành lập, giải tán hoặc thay đổi một cách đáng kể các Giáo xứ mà không tham khảo ý kiến Hội đồng Linh mục.
(3) Một khi đã được thành lập hợp lệ, Giáo xứ đương nhiên được hưởng tính cách pháp nhân theo luật.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh ơn gọi của Giáo xứ là biểu hiện sự gần gũi của Giáo hội: « Giáo xứ như Giáo hội, tự mình sống giữa con cái nam nữ của mình. Nếu Giáo xứ xen vào giữa những căn nhà của tha nhân, giáo xứ sống và tác động trong lòng xã hội loài người và liên đới thâm sâu với các ước vọng và thảm kịch của nó… Giáo xứ phải là căn nhà mở rộng đón tiếp mọi người, hay như Đức Gioan XXIII thường nói là ‘giếng nước của thôn xóm’ để mọi người đến giải khát. » (Ơn gọi và Sứ mệnh của người giáo dân, số 26 và 27).
Điều 518 Giáo Luật qui định: « Theo luật chung, Giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các Giáo xứ tòng nhân xét vì lý do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác. »
Do đó, tại Việt Nam, chúng ta chỉ thấy những Giáo xứ tòng thổ và được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội Quê Hương. Hiện nay, trên thế giới, nhiều Giáo xứ tòng nhân người Việt cũng đã được Giáo Quyền địa phương công nhận vì được thiết lập cách bền vững trong Giáo phận. Nhờ tính cách này, Linh mục và giáo dân Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại hải ngoại được phép dâng Thánh Lễ và cử hành các Bí tích bằng tiếng Việt, theo Nghi thức Phụng Vụ đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam phê chuẩn như tại các Giáo xứ tòng thổ tại Quê Hương.
B.- Tín hữu.
Điều 518 Giáo Luật đề cập Giáo xứ bao gồm tất cả các tín hữu. Nhưng ai là ‘Tín hữu’ ?
Danh từ tín hữu được Bộ Giáo Luật ngày 25.01.1983 định nghĩa nơi điều 204:
(1) Các tín hữu là những người, nhờ phép Rửa Tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mệnh mà Thiên Chúa đã giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới.
(2) Giáo hội này, được thiết lập và tổ chức như một xã hội ở trong thế giới, tồn tại trong Giáo hội Công Giáo, được cai quản do người kế vị Thánh Phêrô và do các Giám mục hiệp thông với Người.
Như vậy, tất cả mọi thành phần của Giáo hội là Dân Chúa, là nhiệm thể của Đức Kitô, từ Đức Giáo Hoàng, các Hồng Y, Đức Cha, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân đều là tín hữu, là những người tin vào Đức Kitô.
Phép Rửa Tội, bí tích Đức Tin, dã tái sinh chúng ta trong sự sống con Chúa, kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu Kitô, với thân thể Ngài là Giáo hội, xức dầu cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần bằng cách làm cho chúng ta trợ nên những đền thờ thiêng liêng.
C.- Tín hữu Giáo dân.
Khi ra khỏi giếng nước Rửa Tội, mỗi người Kitô hữu đều được nghe tiếng đã phán trước kia trên bờ sông Giođanô: « Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con. » (Lc 3:22). Khi đó, người tín hữu đều chỉ là tín hữu giáo dân. Sau đó, người tín hữu có thể sống nghĩa vụ theo Ơn Gọi Chúa đã tuyển định: giáo sĩ hay giáo dân.
Bộ Giáo Luật trong điều 207, khoản 1 phân biệt tín hữu giáo dân với giáo sĩ và tu sĩ như sau: « Do sự thiết lập của Thiên Chúa, giữa các tín hữu trong Giáo hội, có các thừa tác viên có chức thánh, trong luật được gọi là các Giáo Sĩ; còn các người khác được gọi là Giáo Dân. »
Khoản 2 của điều luật trên phân biệt giáo dân với tu sĩ như sau: « Trong cả hai thành phần vừa nói, có những tín hữu tận hiến cho Thiên Chúa một cách đặc biệt và đóng góp vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo hội bằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm qua lời khấn hoặc qua mối giây ràng buộc thánh thiện khác, được Giáo hội công nhận và phê chuẩn. Hàng ngũ của họ tuy không thuộc về cơ cấu phẩm trật của Giáo hội, nhưng thực sự thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Giáo hội. »
Như vậy:
- Giáo sĩ là người tín hữu có chức thánh như Phó tế, Linh mục và Giám mục hay giáo sĩ thừa tác. Nhưng chỉ có Linh mục và Giám mục được gọi là tư tế vì có chức tư tế thừa tác và được quyền tế lễ (chủ tọa Thánh Lễ). Phó tế là thừa tác viên được truyền chức thánh để lo công tác phục vụ trong Giáo hội.
- Tu sĩ là người tín hữu nam nữ đã quảng đại đáp lời mời gọi của Chúa để tự nguyện khấn và sống ba lời khuyên Phúc Âm (khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục) hoặc có giây ràng buộc thánh thiện khác được Giáo Hội công nhận và phê chuẩn. Đây là bậc sống thánh hiến dành cho những người có ơn gọi sống những linh đạo hay đặc sủng đặc biệt của nhiều Dòng Tu hay Tu Hội khác nhau.
- Giáo dân được Bộ Giáo Luật định nghĩa theo tinh thần Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ số 31, như sau: « Danh hiệu giáo dân, có nghĩa là tất cả các Kitô hữu không thuộc thành phần chức thánh, hay bậc tu trì được Giáo hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được phép Rửa Tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được trở thành người tham gia, theo cách của mình, vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng Lời Chúa, và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo hội và giữa trần thế theo nhiệm riêng của mình. »
a. Chức vụ người tín hữu giáo dân.
Nếu Đức Kitô là đầu Nhiệm Thể của Ngài là Hội Thánh, thì người tín hữu giáo dân thuộc về nhiệm thể ấy được thông phần vào chức vụ chính của Ngài là:
1. Chức vụ tư tế.
Người tín hữu giáo dân thông phần vào chức vụ tư tế của Đức Kitô như Hiến Chế về Giáo hội quả quyết trong số 34: « Chúa Giêsu Kitô thượng tế vĩnh cửu… những người đã được Ngài cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Ngài, Ngài cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế để thực hàng việc phụng tự thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Bởi thế, giáo dân đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên hô được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn… »
Như vậy đời sống gia đình, đời sống xã hội người tín hữu giáo dân vời tất cả vui buồn, sướng cực, thành công thất bại… nếu họ biết nhận lãnh trong tinh thần Chúa Kitô thì tất cả sẽ trở nên của lễ làm vinh danh Thiên Chúa hiệp với lễ của Đức Kitô là chính mình Ngài đã được hy tế trên Thánh Giá và hằng ngày dâng lại trong Thánh Lễ.
2. Chức vụ Rao giảng Lời Chúa.
Người tín hữu giáo dân nhận lãnh chức vụ này cũng từ Chúa Kitô, như Công Đồng Vatican II quả quyết: « Chúa Kitô vị Ngôn sứ cao cả, Đấng đã dùng chứng tích đời sống và sức mạnh của lời nói để công bố vương quốc của Cha… Ngài chu toàn chức vụ Ngôn sứ cho đến lúc vinh hiển Ngài được biểu lộ trọn vẹn. Ngài chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng Giáo phẩm là những người nhân danh và lấy quyền người giảng dạy, những cũng nhờ các giáo dân, đã được Ngài đặt làm chứng nhân đồng thời ban cho họ cảm thức Đức Tin và Ơn dùng ngôn từ (Công vụ 2:17-18; Khải Huyền 19,10) để sức mạnh Phúc Âm sáng ngời trong đời sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội. » (Ánh Sáng Muôn Dân số 35).
Người giáo dân rao giảng Lời Chúa vừa bằng lời nói vừa bằng hàng động và cách sống để làm chứng nhân.
2. Chức vụ vương giả.
Chúa Kitô đã hạ mình vâng lời cho đến chết và, vì thế, Ngài đã thắng sự chết và được Chúa Cha cho sống lại, vinh quang vào nước Ngài. Nước Ngài là nước Chân lý, nước Tình yêu và Hoà bình. Trong nước này, không những mọi người được kêu gọi vào, mà ngay cả mọi loài tạo vật cũng đang mong chờ được giải thoát khỏi sự hư nát của tội lỗi loài người để bước vào vinhững quang nước ấy (Rom. 8:21).
Người giáo dân trước tiên có bổn phận thắng lướt tội lỗi của mình để bước vào sự tự do con Chúa trong nước ân sủng của Ngài.
Tiếp đến, ngoài việc đưa các anh em mình vào nước Chúa, người giáo dân có bổn phận ‘thánh hóa các thực tại trần thế’ để đưa các thực tại này được ‘giải thoát’ nghĩa là được xử dụng làm vinh danh Thiên Chúa. Hiến Chế ‘Aùnh Sáng Muôn Dân’ nói rõ:
« Vì thế, tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, cũng như giá trị, và cùng đích là ca tụng Thiên Chúa, đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh thiện nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong Công lý, Bác ái và Hồ bình. Giáo dân giữ vai trò chính yếu trong việc chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó… »
B. ‘Tính cách trần thế’ của người giáo dân.
Mặc dù cũng là tín hữu như các Linh mục, Tu sĩ nhưng vì không phải là Linh mục, Tu sĩ, nên Giáo dân có một đặc tính mà hai hạng người trên không có. Đó là ‘tính cách trần thế’. Công Đồng Vatican II quả quyết: « Tính cách trần thế là đặc tính riêng biệt của giáo dân » (Ánh Sáng Muôn Dân, số 31).
Tính cách trần thế là ở giữa trần thế, sống với đời sống của trần thế và sống cho trần thế, nghĩa là không phải sống bị lôi cuốn theo các chiều hướng xấu của trần thế, trái lại, để cải hóa trần thế theo tinh thần của Chúa Kitô, như Ngài đã căn dặn: « Chúng con là muối đất… chúng con là ánh sáng của thế gian » (Mt 5:16)
Tính cách trần thế này đặt nền tảng trên hai Chân lý thần học: mầu nhiệm sáng tạo và mầu nhiệm nhập thể cùng nhập thế của Thiên Chúa:
- Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Thiên Chúa đã trao cho con người quyền chế ngự tạo vật (Sáng thế 1: 26-31).
- Khi muốn cứu chuộc con người, Chúa đã muốn sinh ra làm người để sống hoàn toàn thân phận con người trong lịch sử của nó.
Vì thế, Công Đồng Vatican II quả quyết: « Tính cách trần thế của người tín hữu giáo dân không chỉ được định nghĩa theo quan niệm xã hội, mà theo ý nghĩa thần học. Tính cách trần thế phải hiểu theo ánh sáng của tác động tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Đấng đã trao phó trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia vào việc tạo dựng, để họ giải thoát thọ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ tự thánh hóa mình trong đờụi sống hôn nhân hay độc thân, trong gia đình, trong chức nghiệp và trong các hoạt động xã hội. » (đề nghị 4 của Thượng Hội đồng Giám mục năm 1978 về Ơn gọi và Sứ mệnh của người giáo dân).
Trong Tông Huấn về giáo dân, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích thêm: « Sống và hành động giữa thế giới đối với các tín hữu giáo dân, không chỉ là một thực tại nhân sinh xã hội, mà còn là một thực tại chuyên biệt thần học giữa trần thế. Thiên Chúa muốn biểu lộ ý định của Ngài và thông ban cho họ Ơn gọi đặc biệt là ‘tìm nước Thiên Chúa bằng cách quản lý những thực tại trần thế mà họ phải sắp xếp theo ý Thiên Chúa… » (Tông Huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15).
Như vậy, mọi tín hữu Đức Kitô đều được mời sống nên thánh theo Ơn Gọi Chúa đã chỉ định và chúng ta đã tự do đáp lời: Giáo sĩ, Tu sĩ hay Giáo dân. Tất cả Kitô hữu sống đạo hợp thành Nhiệm Thể Đức Kitô hay Giáo hội và hợp tác với nhau, theo khả năng Chúa ban, để Giáo hội Công giáo hoàn thành sứ vụ của mình: Giáo Huấn và Thánh Hóa (Bộ Giáo Luật ngày 25.01.1983).
(Còn tiếp)
Hà minh Thảo